Từ một dân buôn cò con chuyên đánh quả lẻ, chỉ sau một phi vụ đầu cơ để đời, John Paulson đã lập kỷ lục về thu nhập, kiếm được gần 4 tỷ USD trong năm 2007. Ông nhanh chóng gia nhập thế giới dành cho những siêu tỷ phú và trở thành ngôi sao sáng trong giới đầu cơ. Tài phiệt người Mỹ này cũng được mệnh danh là "ông hoàng của vay dưới chuẩn", vung tiền thâu tóm cả tá ngân hàng, nhà đất phố Wall, trục lợi từ sự bất ổn của nền kinh tế.
"Ông trùm" thâu tóm nhà băng phố Wall
Theo lý lịch trích ngang của tỷ phú John Paulson, trước khi quyết định dấn thân vào phi vụ đầu cơ để đời, ông từng làm đủ nghề cò con để kiếm sống. Vốn là một sinh viên Đại học Havard, tài năng có thừa, bản lĩnh không thiếu nhưng điều ông kỳ vọng là cơ hội thì chưa một lần mỉm cười. Trải quả 10 năm lăn lộn thương trường, những gì ông xây dựng được chỉ là con số không tròn trĩnh.
Cũng giống như rất nhiều cư dân của thế giới đầu cơ khi khởi nghiệp, Paulson nhanh chóng nhận ra rằng, nếu chỉ làm công ăn lương hoặc trông cậy vào khoản tiền thưởng hay hoa hồng sau mỗi phi vụ kinh doanh thành công thì chỉ mãi "dậm chân tại chỗ". Giấc mơ đặt chân vào giới thượng lưu sẽ mãi chỉ là ảo tưởng. Muốn kiếm tiền nhanh thì phải có gan liều và chấp nhận rủi ro. Ông quan niệm, khái niệm "đầu tư" chỉ là mỹ từ đánh lừa nhận thức bởi thực chất của đầu tư là đầu cơ, là bỏ tiền ra nhằm vào cái gì đó hiện chưa chắc có thành hiện thực trong tương lai hay không.
Với kinh nghiệm tích lũy được, Paulson quyết định thành lập công ty riêng, gõ cửa thế giới đầu cơ chỉ với vài nhân viên và 2 triệu USD huy động được. Ông vận dụng triết lý "nước lặng là nước sâu", đứng trong bóng tối quan sát sự việc xảy ra ở khu sáng để kiếm lời. Nhân vật này có biệt tài nhìn thấy được bóng dáng cuộc khủng hoảng và thu lợi ngay từ nguy cơ đó thay vì gióng lên tiếng chuông báo động. Thủ đoạn của Paulson lại lợi dụng kinh tế suy thoái, dùng tiền và quan hệ mua lại các khoản nợ của những công ty đang gặp khó khăn. Khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi trở lại, ông bắt đầu hốt bạc từ những "cỗ máy kiếm tiền" này.
Trên đà làm ăn như "lên đồng", Paulson bắt đầu khiến giới đầu cơ toàn cầu "khiếp vía" với những phi vụ đầu tư của mình. Ông lần lượt thâu tóm một số ngân hàng, nhà đất phố Wall, gây ảnh hưởng nên hệ thống tài chính của nước Mỹ nhờ sức ép từ những quỹ đầu cơ do mình nắm giữ. Tuy nhiên, vừa ra "biển lớn" ông đã bị ăn "quả đắng". Giữa năm 2005, Paulson cho rằng kinh tế Mỹ có vấn đề nên tập trung đầu cơ vào sự giảm giá của cổ phần các doanh nghiệp. Nhưng tỷ giá chứng khoán ở Mỹ vẫn cứ tiếp tục tăng cho tới cuối năm 2005. Paulson bị "chết hụt", nhưng đổi lại được bài học xương máu là không thể tin cậy được vào thông tin của kẻ khác. Ông ngẫm ra rằng: "Điều chắc chắn nhất là chẳng có gì chắc chắn cả", "quy luật quan trọng nhất là chẳng có quy luật nào cả" và "nguyên tắc tối thượng là cái gì cũng có thể xảy ra".
Sau thời gian "nếm mật nằm gai", "ông hoàng" mới nổi này quyết định đi nước cờ một ăn một thua. "Ngửi" thấy mùi chiến thắng, ông quyết định đặt cược vào sự sụp đổ của thị trường nhà đất phố Wall. Thật kỳ lạ, những diễn biến của thị trường sau đó đều hệt như suy tính của Paulson. Khủng hoảng tài chính bung ra và Paulson thu về 3,7 tỷ USD trong năm 2007, vượt xa kỷ lục do "ông vua đầu cơ" George Soros lập với 2,9 tỷ USD hay James Simons trước đó với 2,8 tỷ USD. Cũng trong năm 2007, tất cả các quỹ của Paulson đều thắng lớn khi kiếm được tới 15 tỉ USD. Cũng từ đây, thế giới đầu cơ lộ diện thêm một ngôi sao mới. Cái tên John Paulson khiến cư dân phố Wall "kinh hồn bạt vía". Về sau, có lần Paulson khái quát hóa bí quyết thành công của mình là kiên trì, biết mình và biết thời thế.
Theo lý lịch trích ngang của tỷ phú John Paulson, trước khi quyết định dấn thân vào phi vụ đầu cơ để đời, ông từng làm đủ nghề cò con để kiếm sống. Vốn là một sinh viên Đại học Havard, tài năng có thừa, bản lĩnh không thiếu nhưng điều ông kỳ vọng là cơ hội thì chưa một lần mỉm cười. Trải quả 10 năm lăn lộn thương trường, những gì ông xây dựng được chỉ là con số không tròn trĩnh.
Cũng giống như rất nhiều cư dân của thế giới đầu cơ khi khởi nghiệp, Paulson nhanh chóng nhận ra rằng, nếu chỉ làm công ăn lương hoặc trông cậy vào khoản tiền thưởng hay hoa hồng sau mỗi phi vụ kinh doanh thành công thì chỉ mãi "dậm chân tại chỗ". Giấc mơ đặt chân vào giới thượng lưu sẽ mãi chỉ là ảo tưởng. Muốn kiếm tiền nhanh thì phải có gan liều và chấp nhận rủi ro. Ông quan niệm, khái niệm "đầu tư" chỉ là mỹ từ đánh lừa nhận thức bởi thực chất của đầu tư là đầu cơ, là bỏ tiền ra nhằm vào cái gì đó hiện chưa chắc có thành hiện thực trong tương lai hay không.
Với kinh nghiệm tích lũy được, Paulson quyết định thành lập công ty riêng, gõ cửa thế giới đầu cơ chỉ với vài nhân viên và 2 triệu USD huy động được. Ông vận dụng triết lý "nước lặng là nước sâu", đứng trong bóng tối quan sát sự việc xảy ra ở khu sáng để kiếm lời. Nhân vật này có biệt tài nhìn thấy được bóng dáng cuộc khủng hoảng và thu lợi ngay từ nguy cơ đó thay vì gióng lên tiếng chuông báo động. Thủ đoạn của Paulson lại lợi dụng kinh tế suy thoái, dùng tiền và quan hệ mua lại các khoản nợ của những công ty đang gặp khó khăn. Khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi trở lại, ông bắt đầu hốt bạc từ những "cỗ máy kiếm tiền" này.
Trên đà làm ăn như "lên đồng", Paulson bắt đầu khiến giới đầu cơ toàn cầu "khiếp vía" với những phi vụ đầu tư của mình. Ông lần lượt thâu tóm một số ngân hàng, nhà đất phố Wall, gây ảnh hưởng nên hệ thống tài chính của nước Mỹ nhờ sức ép từ những quỹ đầu cơ do mình nắm giữ. Tuy nhiên, vừa ra "biển lớn" ông đã bị ăn "quả đắng". Giữa năm 2005, Paulson cho rằng kinh tế Mỹ có vấn đề nên tập trung đầu cơ vào sự giảm giá của cổ phần các doanh nghiệp. Nhưng tỷ giá chứng khoán ở Mỹ vẫn cứ tiếp tục tăng cho tới cuối năm 2005. Paulson bị "chết hụt", nhưng đổi lại được bài học xương máu là không thể tin cậy được vào thông tin của kẻ khác. Ông ngẫm ra rằng: "Điều chắc chắn nhất là chẳng có gì chắc chắn cả", "quy luật quan trọng nhất là chẳng có quy luật nào cả" và "nguyên tắc tối thượng là cái gì cũng có thể xảy ra".
Sau thời gian "nếm mật nằm gai", "ông hoàng" mới nổi này quyết định đi nước cờ một ăn một thua. "Ngửi" thấy mùi chiến thắng, ông quyết định đặt cược vào sự sụp đổ của thị trường nhà đất phố Wall. Thật kỳ lạ, những diễn biến của thị trường sau đó đều hệt như suy tính của Paulson. Khủng hoảng tài chính bung ra và Paulson thu về 3,7 tỷ USD trong năm 2007, vượt xa kỷ lục do "ông vua đầu cơ" George Soros lập với 2,9 tỷ USD hay James Simons trước đó với 2,8 tỷ USD. Cũng trong năm 2007, tất cả các quỹ của Paulson đều thắng lớn khi kiếm được tới 15 tỉ USD. Cũng từ đây, thế giới đầu cơ lộ diện thêm một ngôi sao mới. Cái tên John Paulson khiến cư dân phố Wall "kinh hồn bạt vía". Về sau, có lần Paulson khái quát hóa bí quyết thành công của mình là kiên trì, biết mình và biết thời thế.
Giới quan sát cũng cho biết, để được "lên người", Paulson từng phải đối đầu với hàng chục công ty khác ở phố Wall. Ông từng bị đối thủ cáo buộc có những hành động nhằm thao túng thị trường với chính quyền. Paulson phải đối mặt với sự hoài nghi của các nhà đầu tư khác. Để tránh bị "chọc gậy bánh xe", thông tin về vụ đầu tư quyết tử này thậm chí còn được bảo mật đến mức, ông sử dụng phần mềm ngăn chặn các nhà đầu tư chuyển tiếp các email của mình.
"Ông hoàng" hết thời vì trượt dốc
Năm 2011 được coi là năm làm ăn vận hạn của Paulson. Quỹ đầu cơ do ông "cầm đầu" liên tục gánh thất bại, hàng tỷ đô đã không cánh mà bay sau những quyết sách sai lầm của "ông chủ". Sau phi vụ thắng đậm năm 2010, Paulson quả quyết rằng, năm 2011 ông sẽ tiếp tục chiến thắng. Ông bắt đầu đặt cược lớn và mạo hiểm hơn. Paulson đã mua lại số cổ phần lớn tại các ngân hàng như Bank of America, Wells Fargo, JPMorgan Chase, Capital One. Ông cũng dốc túi thâu tóm cổ phiếu của các tập đoàn khai thác vàng, mà ông dự kiến sẽ tăng về giá trị khi lạm phát tăng... Tỷ phú này cho rằng nền kinh tế sẽ hồi phục và ông sẽ thu lời lớn từ những khoản đầu tư này. Thế nhưng, hầu hết những thương vụ đầu tư của ông đã suy giảm giá trị nghiêm trọng khi thị trường ngày càng đi xuống và cuộc khủng hoảng tại châu Âu đã diễn biến tồi tệ hơn.
Thảm họa chưa dừng lại. Không lâu sau khi ông liều lĩnh thâu tóm công ty Sino-Forest, công ty này bị Ủy ban chứng khoán Ontario (Canada) buộc tội lừa đảo. Paulson thậm chí còn bị một cựu đồng sự kiện lên tòa án Miami (Mỹ) vì không kiểm tra, thẩm định đầy đủ trước khi rót vốn đầu tư. Từ sau những vụ lùm xùm này, tiền trong túi ngày một hao hụt, tiếng tăm của Paulson cũng sa sút nghiêm trọng.
Nhìn lại một năm đen tối, các quỹ của Paulson gánh khoản lỗ khổng lồ. Rất khó để tính toán chính xác con số lỗ thực sự nhưng theo các báo cáo gửi nhà đầu tư của Paulson, tính đến cuối năm 2011, các quỹ của ông đã có ít hơn 13,2 tỉ USD giá trị tài sản so với cuối năm 2010. Ông thừa nhận đã phạm một số sai lầm lớn như đánh giá thấp cuộc khủng hoảng nợ châu Âu, quá lạc quan về nền kinh tế Mỹ... "Tình hình hoạt động năm 2011 rõ ràng là không thể chấp nhận được. Nhưng chúng tôi tin rằng năm 2011 chỉ là một phút lầm lạc trong chuỗi dài hoạt động của chúng tôi", Paulson phân trần.
Năm 2012, theo thống kê, khối lượng tài sản mà tỷ phú này quản lý đã sụt giảm mất 1 nửa, từ mức đỉnh 38 tỷ USD xuống chỉ còn 19,5 tỷ USD. Một số nhà đầu tư, trong đó có những nhà đầu tư cỡ bự đã và đang rút tiền ra khỏi các quỹ đầu cơ của tỷ phú này.
"Ông hoàng" hết thời vì trượt dốc
Năm 2011 được coi là năm làm ăn vận hạn của Paulson. Quỹ đầu cơ do ông "cầm đầu" liên tục gánh thất bại, hàng tỷ đô đã không cánh mà bay sau những quyết sách sai lầm của "ông chủ". Sau phi vụ thắng đậm năm 2010, Paulson quả quyết rằng, năm 2011 ông sẽ tiếp tục chiến thắng. Ông bắt đầu đặt cược lớn và mạo hiểm hơn. Paulson đã mua lại số cổ phần lớn tại các ngân hàng như Bank of America, Wells Fargo, JPMorgan Chase, Capital One. Ông cũng dốc túi thâu tóm cổ phiếu của các tập đoàn khai thác vàng, mà ông dự kiến sẽ tăng về giá trị khi lạm phát tăng... Tỷ phú này cho rằng nền kinh tế sẽ hồi phục và ông sẽ thu lời lớn từ những khoản đầu tư này. Thế nhưng, hầu hết những thương vụ đầu tư của ông đã suy giảm giá trị nghiêm trọng khi thị trường ngày càng đi xuống và cuộc khủng hoảng tại châu Âu đã diễn biến tồi tệ hơn.
Thảm họa chưa dừng lại. Không lâu sau khi ông liều lĩnh thâu tóm công ty Sino-Forest, công ty này bị Ủy ban chứng khoán Ontario (Canada) buộc tội lừa đảo. Paulson thậm chí còn bị một cựu đồng sự kiện lên tòa án Miami (Mỹ) vì không kiểm tra, thẩm định đầy đủ trước khi rót vốn đầu tư. Từ sau những vụ lùm xùm này, tiền trong túi ngày một hao hụt, tiếng tăm của Paulson cũng sa sút nghiêm trọng.
Nhìn lại một năm đen tối, các quỹ của Paulson gánh khoản lỗ khổng lồ. Rất khó để tính toán chính xác con số lỗ thực sự nhưng theo các báo cáo gửi nhà đầu tư của Paulson, tính đến cuối năm 2011, các quỹ của ông đã có ít hơn 13,2 tỉ USD giá trị tài sản so với cuối năm 2010. Ông thừa nhận đã phạm một số sai lầm lớn như đánh giá thấp cuộc khủng hoảng nợ châu Âu, quá lạc quan về nền kinh tế Mỹ... "Tình hình hoạt động năm 2011 rõ ràng là không thể chấp nhận được. Nhưng chúng tôi tin rằng năm 2011 chỉ là một phút lầm lạc trong chuỗi dài hoạt động của chúng tôi", Paulson phân trần.
Năm 2012, theo thống kê, khối lượng tài sản mà tỷ phú này quản lý đã sụt giảm mất 1 nửa, từ mức đỉnh 38 tỷ USD xuống chỉ còn 19,5 tỷ USD. Một số nhà đầu tư, trong đó có những nhà đầu tư cỡ bự đã và đang rút tiền ra khỏi các quỹ đầu cơ của tỷ phú này.
Siêu tài phiệt John Paulson cùng một số nhân vật chóp pu khác từng nằm trong tầm ngắm của Quốc hội Mỹ. Ông đã phải ra điều trần trước một Ủy ban điều tra của Quốc hội Mỹ về những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ. Các nhà lập pháp Mỹ muốn biết liệu những siêu tỷ phú này có góp phần giật dây cho sự sụp đổ tài chính trong thời gian qua hay không. Tổng thống Mỹ Barack Obama từng tuyên bố: "Sẽ có một quyết định liên quan đến các quỹ đầu cơ và các cơ quan tính điểm (chuyên tính giá trị các công ty)". Bộ trưởng Tài chính Mỹ Tim Geithner cũng dự định trình Quốc hội một dự luật giúp kiểm soát và giám sát tốt hơn đối với các quỹ đầu cơ.
Trong năm 2008 đầy biến động, quỹ đầu cơ của Paulson đã kiếm lãi đến 37,6%! Nhờ đặt cược vào sự sụt giảm của các giá trị tài chính khi bán ra kịp các cổ phiếu xuống dốc, Paulson thu lãi cho riêng mình 2 tỉ USD trong năm. Đến năm 2010, quỹ của Paulson đã trở thành một trong những quỹ đầu cơ lớn nhất thế giới với 32 tỉ USD giá trị tài sản được quản lý. Trong đó gần 60% là tiền của "ông chủ". Từ đây, Paulson được biết đến dưới cái tên "ông hoàng của vay dưới chuẩn". Nguyệt san Trader Monthly đã bình bầu là "nhà buôn tài chính của năm", một huyền thoại trong giới tài chính. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét